Scholar Hub/Chủ đề/#thức ăn đường phố/
Thức ăn đường phố là các món ăn được bày bán và phục vụ trên các con đường, ngõ hẻm, chợ đường phố hoặc tại các gian hàng di động. Thức ăn đường phố thường là n...
Thức ăn đường phố là các món ăn được bày bán và phục vụ trên các con đường, ngõ hẻm, chợ đường phố hoặc tại các gian hàng di động. Thức ăn đường phố thường là những món ăn nhanh, dễ chế biến và tiện lợi để khách hàng có thể mua và ăn ngay tại chỗ hoặc mang đi. Các loại món ăn đường phố phổ biến có thể kể đến như bánh mì, bánh cuốn, phở, bún chả, bún riêu cua, bánh xèo, hủ tiếu, gỏi cuốn, nem rán, chả giò, xôi, chè, bánh tráng trộn, trái cây cắt lát... Món ăn đường phố không chỉ phục vụ nhu cầu ăn uống mà còn mang trong mình nét văn hóa và lòng tin của người dân địa phương.
Thức ăn đường phố là nét đặc trưng của nền ẩm thực đa dạng và phong phú của mỗi quốc gia và vùng miền. Dưới đây là một số ví dụ chi tiết về thức ăn đường phố ở một số quốc gia:
- Ở Thái Lan, món ăn đường phố nổi tiếng như pad thai (hủ tiếu xào), som tam (gỏi đu đủ), satay (thanh cá nướng), mango sticky rice (xôi hấp với xoài), khao man gai (cơm gà hấp) và nhiều loại bánh, chè đặc sản khác.
- Trung Quốc có nhiều món ăn đường phố phổ biến như jianbing (bánh mì nướng trứng kiểu Trung Quốc), baozi (bánh bao nhân thịt), tanghulu (kẹo táo chua), lamb skewers (xúc xích cừu nướng), hot pot (lẩu) và nhiều món khác.
- Ở Mexico, các loại taco (bánh mì trứng) như taco al pastor (taco vịt), taco de carnitas (taco thịt heo hầm), churros (bánh ngọt rán), elote (bắp ngô nướng) và tlayudas (bánh mì nướng cung cấp sàn tacos) là những món ăn đường phố rất phổ biến.
- Tại Ấn Độ, vada pav (bánh mì chiên nhân khoai tây), pani puri (bánh phồng tôm), momos (bánh mì hấp), samosa (bánh giòn nhân khoai tây) và bhel puri (bánh ngọt nhân rong biển) là một số món ăn đường phố quen thuộc.
- Ở Việt Nam, món ăn đường phố phổ biến như bánh mì (bánh mì ốp-la, bánh mỳ que, bánh mỳ kepab) , bún riêu cua, phở, bánh xèo, bánh tráng trộn, nem rán, bò bía (gỏi cuốn), chè, trái cây cắt lát và nhiều món khác.
Các món ăn đường phố thường được bày bán tại các quầy hàng rong, xe đẩy và gian hàng di động. Đặc điểm chung của thức ăn đường phố là giá cả phải chăng, ngon và dễ tiếp cận cho mọi người.
Exosome từ tế bào gốc trung mô tủy xương giảm tích tụ Aβ và cải thiện hồi phục chức năng nhận thức ở chuột mắc bệnh Alzheimer thông qua việc kích hoạt con đường tín hiệu sphingosine kinase/sphingosine‐1‐phosphate Dịch bởi AI Cell Biology International - Tập 45 Số 4 - Trang 775-784 - 2021
Tóm tắtExosome liên quan đến sự phát triển và tiến triển của bệnh Alzheimer (AD), mặc dù tác động của các vesicle ngoài tế bào này trong điều kiện bệnh lý của não vẫn chưa được hiểu rõ hoàn toàn. Do đó, nghiên cứu này nhằm điều tra vai trò và cơ chế của tín hiệu exosome trong AD. Chuột APP/PS1 biến đổi gen đôi được tiêm exosome từ tế bào gốc trung mô tủy xương (BM‐MSCs) hoặc phối hợp với SKI‐Ⅱ (thuốc ức chế sphingosine kinase [SphK]) hoặc VPC23019 (thuốc chặn thụ thể sphingosine‐1‐phosphate [S1P] 1). Chúng tôi quan sát khả năng học tập không gian và trí nhớ của chuột, và đánh giá nồng độ amyloid và các protein. Chúng tôi thấy rằng exosome cải thiện khả năng học tập không gian và trí nhớ của chuột APP/PS1, và tăng cường biểu hiện của SphK1 và S1P1. Hơn nữa, exosome ức chế nồng độ amyloid và tăng cường biểu hiện của NeuN trong vỏ não và hippocampus của chuột APP/PS1. Exosome ức chế nồng độ Aβ1‐40, Aβ1‐42, BACE1, và PS1, và thúc đẩy biểu hiện của neprilysin ở chuột APP/PS1. Tác động mà exosome mang lại bị loại bỏ bởi SKI‐Ⅱ hoặc VPC23019. Kết luận, bài báo của chúng tôi xác nhận rằng exosome từ BM‐MSCs giảm tích tụ Aβ và thúc đẩy hồi phục chức năng nhận thức ở chuột AD bằng cách kích hoạt con đường tín hiệu SphK/S1P. Do đó, dữ liệu của chúng tôi gợi ý rằng exosome chứa S1P/SphK nên được khảo sát như là liệu pháp tiềm năng cho bệnh AD.
#exosome #tế bào gốc trung mô #bệnh Alzheimer #sphingosine kinase #hồi phục chức năng nhận thức
Tiềm năng chuyển đổi dinh dưỡng bằng giải pháp dựa vào thiên nhiên trong các thành phố và khái niệm sử dụng để tạo ra hệ thống thực phẩm đô thị tuần hoàn Dịch bởi AI Springer Science and Business Media LLC - Tập 1 - Trang 1147-1164 - 2021
Hệ thống thực phẩm hiện tại đặc trưng bởi dòng chảy tài nguyên theo chiều tuyến tính từ các khu vực nông thôn vào các thành phố, nơi mà phần lớn thực phẩm được tiêu thụ và các chất dinh dưỡng cần thiết bị thải ra dưới dạng nước thải. Tài nguyên nước và phốt pho hạn chế cùng với dấu chân carbon lớn của các loại phân bón hóa học thúc đẩy việc thu hồi nước và chất dinh dưỡng để tái sử dụng trong nông nghiệp. Bên cạnh các công nghệ xử lý nước thải tại nhà máy xử lý nước thải thông thường, các giải pháp dựa vào thiên nhiên cung cấp một giải pháp thay thế vững chắc và tiết kiệm năng lượng. Bài báo này đánh giá tiềm năng của các quy trình xử lý sử dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên nhằm đóng kín vòng tuần hoàn nước và chất dinh dưỡng trong hệ thống thực phẩm đô thị. Phương pháp Phân tích Dòng Chất được sử dụng để định lượng ngân sách chất dinh dưỡng đô thị (nitơ, phốt pho, kali) có thể phục hồi từ nước thải hộ gia đình và chất thải bếp có thể phân hủy, lấy thành phố Vienna, Áo làm ví dụ. Mô hình phát triển phản ánh quá trình chuyển hóa nước và các chất dinh dưỡng của các đầm lầy xử lý và các bể biogas thành nước tưới phân và phân bón. Nó phân biệt giữa các yêu cầu về chất dinh dưỡng cụ thể của cây trồng và năng suất, cũng như điều kiện canh tác trong nhà kính và ngoài trời trong khí hậu ôn hòa. Kết quả chỉ ra rằng, với việc sử dụng các giải pháp dựa vào thiên nhiên, nước thải và chất thải bếp từ 77.250 người có thể hoàn toàn đáp ứng nhu cầu phân bón nitơ và phốt pho cho toàn bộ sản xuất rau củ ở Vienna, nơi hiện cung cấp một phần ba lượng rau tiêu thụ của Vienna. Số lượng người bổ sung vào hệ thống có thể cung cấp thêm lượng chất dinh dưỡng dư thừa đáng kể để sản xuất các loại cây trồng khác trong và ngoài thành phố. Mô hình có thể cung cấp thông tin cho việc lựa chọn và thiết kế các giải pháp dựa vào thiên nhiên để thu hồi và tái sử dụng chất dinh dưỡng, đồng thời hỗ trợ quy hoạch tích hợp về việc sử dụng các nguồn chất dinh dưỡng thứ cấp và tối ưu hóa việc sử dụng chất dinh dưỡng thứ cấp.
#hệ thống thực phẩm đô thị #nước thải #chất dinh dưỡng #giải pháp dựa vào thiên nhiên #tuần hoàn #phân bón #Vienna
Photobiomodulation thúc đẩy sự tái tạo dây thần kinh mặt thông qua việc kích hoạt phản ứng chống oxy hóa trung gian con đường tín hiệu PI3K/Akt Dịch bởi AI Lasers in Medical Science - - 2022
Tóm tắtRối loạn dây thần kinh mặt là một tình trạng lâm sàng phổ biến dẫn đến biến dạng và đau khổ tinh thần cho những người bị ảnh hưởng. Nghiên cứu này nhằm đánh giá liệu photobiomodulation có thể tăng cường sự tái tạo của các dây thần kinh mặt bị đè bẹp và cố gắng điều tra cơ chế tiềm ẩn có thể của chức năng neuroprotection và mục tiêu điều trị. Các thông số khác nhau của photobiomodulation được chỉ định cho các dây thần kinh mặt và tế bào Schwann (SCs) riêng biệt trong quá trình chấn thương bị đè bẹp ở chuột. Sự tái tạo trục thần kinh, kết quả chức năng, sự apoptosis trên SC, sự phát triển và cơ chế hành động tiềm ẩn được đánh giá thông qua các đánh giá hình thái học, mô bệnh học và chức năng, phân tích tế bào dòng chảy, western blotting, PCR thời gian thực và IncuCyte. Kết quả cho thấy photobiomodulation cải thiện sự tái tạo trục thần kinh và phục hồi chức năng, và cũng thúc đẩy sự phát triển, đồng thời ức chế sự apoptosis của SCs, cả hai yếu tố này được coi là các thông số hiệu quả nhất trong nhóm 250mW. Thêm vào đó, các tác dụng neuroprotection của photobiomodulation (500mW) có thể liên quan đến việc apoptosis của SCs do stress oxy hóa gây ra thông qua việc kích hoạt con đường truyền tín hiệu PI3K/Akt. Kết quả của chúng tôi tiết lộ rằng photobiomodulation đã thúc đẩy đáng kể sự tái tạo trục thần kinh, phục hồi chức năng và tái tạo nhân dây thần kinh mặt, và cơ chế của nó liên quan đến việc điều chỉnh lên con đường tín hiệu PI3K/Akt. Những phát hiện này cung cấp bằng chứng thực nghiệm rõ ràng về photobiomodulation như một chiến lược điều trị thay thế cho tổn thương dây thần kinh ngoại vi.
Thực trạng stress của sinh viên điều dưỡng Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng năm 2020Stress là một vấn đề sức khỏe tâm thần phổ biến. Nghiên cứu được thực hiện tại Trường Cao đẳng Y tế Hải Phòng năm 2020 với mục tiêu mô tả thực trạng stress của sinh viên điều dưỡng. Nghiên cứu áp dụng thiết kế nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 300 sinh viên sử dụng thang Depression Anxiety Stress Scale – 21 (DASS - 21) và thang Stressors in Nursing Students (SINS). Kết quả nghiên cứu cho thấy có 47,3% sinh viên mắc stress, trong đó các mức độ stress nhẹ, vừa, nặng, rất nặng lần lượt là 15,3%, 19%, 8,7% và 4,3%. Sinh viên điều dưỡng năm thứ hai có tỉ lệ mắc stress cao nhất (51%), sau đó là sinh viên năm thứ ba (47%) và thấp nhất là sinh viên năm thứ nhất (44%). Sinh viên cảm nhận stress nhiều nhất là do vấn đề tài chính, tiếp theo là vấn đề học tập, môi trường thực tập lâm sàng và vấn đề cá nhân. Nhà trường, gia đình và xã hội nên có các biện pháp giúp giảm tình trạng stress ở sinh viên điều dưỡng.
#DASS - 21 #SINS #stress #sinh viên điều dưỡng
Thực trạng kiến thức về chăm sóc dinh dưỡng cho người bệnh của điều dưỡng tại bệnh viện Phổi Trung ương năm 2019Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về chăm sóc dinh dưỡng cho người bệnh của điều dưỡng tại bệnh viện Phổi Trung ương.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 213 điều dưỡng ở 13 khoa lâm sàng tại bệnh viện Phổi Trung ương. Sử dụng bộ câu hỏi soạn sẵn tự điền. Thời gian thu thập số liệu từ tháng 3 đến hết tháng 5 năm 2019.
Kết quả: Tỷ lệ điều dưỡng có kiến thức đạt về hiểu biết nhiệm vụ chăm sóc dinh dưỡng cho người bệnh chiếm tỷ lệ cao nhất là 72,8%, tiếp đó là kiến thức đạt về dinh dưỡng và suy dinh dưỡng là 69,5%, kiến thức đạt về chế độ ăn thường dùng tại bệnh viện là 60,1%; kiến thức đạt về đánh giá tình trạng dinh dưỡng là 58,2%, thấp nhất là kiến thức về hỗ trợ dinh dưỡng cho người bệnh 51,2%.
Kết luận: Kiến thức chung về chăm sóc dinh dưỡng cho người bệnh của điều dưỡng tại Bệnh viện Phổi Trung ương có tỷ lệ đạt là 57,3%.
#điều dưỡng #kiến thức #chăm sóc dinh dưỡng
Phát triển ẩm thực đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh để thu hút khách du lịch quốc tế Phát triển hoạt động ẩm thực đường phố là xu thế phù hợp với sự phát triển về du lịch (DL), đặc biệt với những thành phố lớn là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa… nhằm đáp ứng nhu cầu của khách DL trong và ngoài nước. Tuy nhiên, để hoạt động ẩm thực đường phố tạo được sức hút và độ tin cậy của du khách, đồng thời ổn định về môi trường, thì cần phải xây dựng kế hoạch phát triển ở mỗi tuyến đường, địa phương thuộc thành phố. Bài viết trình bày thực trạng, định hướng và giải pháp cho việc phát triển ẩm thực đường phố ở một số quận của Thành phố Hồ Chí Minh (TPHCM) nhằm thu hút khách DL, đặc biệt là du khách quốc tế. 16.00 Normal 0 false false false EN-US X-NONE X-NONE
/* Style Definitions */
table.MsoNormalTable
{mso-style-name:"Table Normal";
mso-tstyle-rowband-size:0;
mso-tstyle-colband-size:0;
mso-style-noshow:yes;
mso-style-priority:99;
mso-style-parent:"";
mso-padding-alt:0cm 5.4pt 0cm 5.4pt;
mso-para-margin:0cm;
mso-para-margin-bottom:.0001pt;
mso-pagination:widow-orphan;
font-size:10.0pt;
font-family:"Times New Roman",serif;}
#ẩm thực đường phố #du lịch Thành phố Hồ Chí Minh #du khách quốc tế
THỰC TRẠNG DINH DƯỠNG Ở HỌC SINH LỚP 10 TẠI TRƯỜNG TRUNG HỌC PHỔ THÔNG GANG THÉP THÁI NGUYÊN NĂM 2020Đặt vấn đề: Học sinh trung học phổ thông là đối tượng cần quan tâm vì đây là lực lượng lao động chính sau này, lứa tuổi này là lứa tuổi tiếp tục hoàn thiện về thể chất. Chính vì vậy chế độ dinh dưỡng không hợp lý có thể dẫn đến những ảnh hưởng lâu dài tới sức khỏe bệnh tật, khả năng học tập và giảm sút khả năng lao động sau này. Mục tiêu: Đánh giá tình trạng dinh dưỡng của học sinh lớp 10 trường trung học phổ thông Gang Thép, thành phố Thái Nguyên năm 2020. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả, thiết kế cắt ngang trên toàn bộ học sinh lớp 10 trường trung học phổ thông Gang Thép, thành phố Thái Nguyên. Kết quả nghiên cứu: Tỷ lệ học sinh bị suy dinh dưỡng thể thấp còi chiếm khá cao 12,7%: Suy dinh dưỡng mức độ vừa chiếm chủ yếu 12,0%, suy dinh dưỡng mức độ nặng chỉ chiếm tỷ lệ 0,7%. Tỷ lệ suy dinh dưỡng thấp còi ở học sinh nữ (13,0%) cao hơn học sinh nam (12,2%), tuy nhiên sự khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa tỷ lệ suy dinh dưỡng thể thấp còi giữa hai giới (p > 0,05). Tỷ lệ suy dinh dưỡng gầy còm của học sinh chiếm 6,9%. Học sinh nữ (7,5%) có tỷ lệ suy dinh dưỡng cao hơn học sinh nam (6,1%). Tỷ lệ thừa cân, béo phì chiếm 13,8%. Trong đó tỷ lệ thừa cân, béo phì ở học sinh nam (17,9%) cao hơn rõ rệt ở học sinh nữ (10,6%).
#Suy dinh dưỡng #thấp còi #gày còm #thừa cân #béo phì #trường trung học phổ thông #Gang Thép #thành phố Thái Nguyên
THỰC TRẠNG KIẾN THỨC, THỰC HÀNH VỀ AN TOÀN THỰC PHẨM CỦA NGƯỜI CHẾ BIẾN VÀ KINH DOANH THỨC ĂN ĐƯỜNG PHỐ TẠI PHƯỜNG TÂN THỊNH, THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN NĂM 2021Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức, thực hành về an toàn thực phẩm của người chế biến và kinh doanh thức ăn đường phố tại phường Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên năm 2021. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp mô tả với thiết kế cắt ngang trên toàn bộ người chế biến, kinh doanh thức ăn đường phố tại phường Tân Thịnh, thành phố Thái Nguyên. Thu thập thông tin bằng sử dụng bộ câu hỏi phỏng vấn được thiết kế sẵn. Sử dụng bảng kiểm quan sát thao tác thực hành của đối tượng nghiên cứu. Kết quả nghiên cứu: Trong số các chất phụ gia được kể đến chỉ có 27,7% đối tượng nghiên cứu cho rằng hàn the không được phép sử dụng trong chế biến thực phẩm; 51,5% cho rằng là phẩm màu; 55,0% trả lời formol; 20,3% trả lời các chất khác (nitrit, nitrat, oestradiol,…). Một số thực hành ATTP của đối tượng nghiên cứu chiếm tỷ lệ không cao: Có rửa tay sạch trước khi chế biến 62,4%, nước đá được lưu giữ riêng 64,4%, thực phẩm được để trong tủ kính 69,8%, chất thải được chứa trong thùng rác có nắp đậy 61,9%. Đối tượng nghiên cứu có kiến thức và thực hành chung tốt về an toàn thực phẩm chiếm tỷ lệ khá cao (85,6% và 83,7%). Bên cạnh đó còn tỷ lệ một số đối tượng nghiên cứu có kiến thức và thực hành chung chưa tốt (14,4% và 16,3%).
#An toàn thực phẩm #thức ăn đường phố #người kinh doanh #chế biến #kiến thức #thực hành #phường Tân Thịnh #thành phố Thái Nguyên
Thực trạng kiến thức về phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ của Điều dưỡng viên tại các Khoa ngoại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020Mục tiêu: Mô tả thực trạng kiến thức về phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ của điều dưỡng viên tại các khoa Ngoại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020.
Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang trên 52 điều dưỡng viên tại 4 khoa ngoại của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Nam Định năm 2020.
Kết quả: Tỷ lệ điều dưỡng viên có điểm kiến thức về phòng ngừa nhiễm khuẩn vết mổ đạt là 71,2%, số còn lại là 28,8% có kiến thức không đạt. Điểm trung bình kiến thức là 78,70 ± 1,17, có điểm kiến thức thấp nhất là 55,56 và cao nhất là 96,30. Trong đó, điều dưỡng viên tại các khoa Ngoại biết được mục đích của việc tắm cho người bệnh trước khi phẫu thuật là 86,5%, điều dưỡng viên biết được phương pháp loại bỏ lông/tóc tại vị trí rạch da là 59,6%. Kiến thức đúng của điều dưỡng viên về mục đích của rửa tay ngoại khoa và thời điểm thích hợp nhất để dùng kháng sinh dự phòng là 100% và 69,2%.Tỷ lệ điều dưỡng viên trả lời đúng về dung dịch sát khuẩn da trước phẫu thuật có hiệu quả nhất là 44,2%. Tỷ lệ điều dưỡng viên trả lời đúng về biểu hiện cho thấy không xảy ra tình trạng nhiễm khuẩn vết mổ là 100% và chỉ có 19,2% điều dưỡng viên trả lời đúng về giám sát có phản hồi giảm nguy cơ nhiễm khuẩn vết mổ.
Kết luận: Kiến thức về phòng ngừa NKVM của điều dưỡng viên là khá cao. Có đến 71,2% điều dưỡng viên có điểm kiến thức ở mức độ đạt, điểm kiến thức ở mức độ không đạt chỉ có 28,8% ĐDV. Điểm trung bình kiến thức là 78,70 ± 1,17 dao động từ 55,56 - 96,30.
#Kiến thức #nhiễm khuẩn vết mổ #điều dưỡng